Pháp luật dân sự: Nền tảng cho các luật khác

Nguyên tắc của luật dân sự là những quy tắc chung được pháp luật quy định có vai trò định hướng và chỉ đạo toàn bộ các quy phạm của luật dân sự. Các nguyên tắc của luật dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng đúng luật dân sự, ngoài ra còn là cơ sở để áp dụng pháp luật trong những trường hợp các quan hệ xã hội chưa có sự điều chỉnh bằng pháp luật.

1. Nguyên tắc cơ bản của luật dân sự là gì?

Nguyên tắc cơ bản của pháp luật là những tư tưởng mang tính chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt, định hướng cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Việc quán triệt, hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện pháp luật đúng tinh thần, bản chất mà pháp luật điều chỉnh.

>>> Xem thêm: Bộ luật tố tụng dân sự 2015

2. Các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự

2.1 Nguyên tắc bình đẳng của luật dân sự

Đây là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận cụ thể tại khoản 1 Điều 3 BLDS 2015: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.

Khác với các mối quan hệ hành chính thì trong dân sự, các chủ thể tham gia trong mối quan hệ đều bình đẳng với nhau được thể hiện ở các điểm sau:

– Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự không phụ thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác. Theo đó những chủ thể có cùng điều kiện như nhau sẽ có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm như nhau.

– Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền.

– Bình đẳng về trách nhiệm dân sự. Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

Tuy nhiên, bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, ngang bằng. Trong một số trường hợp, do ý nghĩa xã hội của vấn đề mà BLDS quy định những lợi thế, những ưu tiên nhất định cho đối tượng tham gia quan hệ dân sự. Ví dụ: Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó – khoản 2 Điều 405 BLDS 2015.

2.2 Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của luật dân sự

Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 BLDS 2015, là nguyên tắc quan trọng bao trùm lên toàn bộ quan hệ dân sự, nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, những quan hệ mang tính chất cá nhân.

Nguyên tắc này được đưa lên là nguyên tắc đầu tiên trong các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự có ý nghĩa nhấn mạnh việc áp dụng nguyên tắc này trong các giao dịch dân sự của đời sống xã hội, vì phần lớn các quan hệ trong đời sống dân sự được thực hiện thông qua hình thức cam kết, thỏa thuận.

Các bên tham gia quan hệ dân sự có quyền tự do cam kết, thoả thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết và thoả thuận hợp pháp đều được pháp luật bảo hộ.

Khi cam kết, thoả thuận, các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thoả thuận trái với ý chí của người đó. Mọi cam kết, thoả thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị tuyên bố là vô hiệu.

pháp luật dân sự
Pháp luật dân sự là nền tảng cho các luật khác. ảnh minh hoạ: Luật Thái An

2.3 Nguyên tắc thiện chí, trung thực của luật dân sự của luật dân sự

Trong quan hệ dân sự, các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngoài ra đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại.

Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nêu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ (khoản 3 Điều 3 BLDS 2015).

Do cácc giao dịch dân sự có tính chất tự nguyện và nình đẳng, do đó, để các giao dịch có thể thực hiện được trong thực tế thì các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngoài ra đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại.

2.4 Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác

Khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 quy định nguyên tắc cơ bản nhất của luật Việt Nam là quyền và nghĩa vụ dân sự phải được xác lập, thực hiện trong mối tương quan hài hòa, hợp lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hầu hết các luật dân sự trên thế giới, nguyên tắc này không chỉ được quy định tại khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 mà còn được cụ thể hóa ở các phần khác của Bộ luật dân sự.

Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Tuy nhiên, chúng phải thực hiện trong một khuôn khổ, giới hạn nhất định.

Bởi lẽ, quyền của một chủ thể bị giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của quốc gia, lợi ích công cộng. Khi các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình mà gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ thể bị hại đó. Nếu không đặt ra một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự rối loạn xã hội nghiêm trọng.

Như vậy, các chủ thể hoàn toàn có quyền tự do nhung phải là tự do trong khuôn khổ vì phải đảm bảo lợi ích, sự bảo toàn, sự phát triển cho dân tộc, lợi ích của đám đông và những lợi ích, quyền hợp pháp của các chủ thể khác. Chỉ cần không xâm phạm giới hạn này thì đương nhiên, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được bảo vệ và bảo hộ thực hiện trong thực tiễn.

2.5 Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự của luật dân sự

Trách nhiệm dân sự là một trong những chế định quan trọng của BLDS. Nguyên tắc này được ghi nhận cụ thể tại khoản 5 Điều 3 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”, chủ yếu được áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ, giữa người bị thiệt hại và người có hành vi trái pháp luật.

Người có nghĩa vụ phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ họp pháp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chủ thể có thể do lỗi vô ý hoặc cố ý dẫn đến không thực hiện đúng hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ của mình dẫn đến ảnh hưởng, thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Do đó, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra, chủ thể gây thiệt hại trong quan hệ dân sự phải chịu trách nhiệm. Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại. Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

 

Trong quan hệ dân sự, đề cao sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của cá nhân, pháp nhân. Do đó, trong thực hiện nguyên tắc này cần lưu ý đặt trong mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc còn lại để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, đó là việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Trên đây là chia sẻ của Luật Thái An về các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự. Nếu có bất cứ thắc mắc nào vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn và giải đáp. Trân trọng cảm ơn!

Nguyễn Văn Thanh