A-Z về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thuộc nhóm tội phạm nghiêm trọng do khung hình phạt cao nhất của tội này là 7 năm tù. Với bề dầy kinh nghiệm trong lĩnh vực tố tụng hình sự, chúng tôi sẽ trình bầy những vấn đề cơ bản nhất về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng: các cấu thành tội phạm, các khung hình phạt, các căn cứ để toà án quyết định hình phạt cụ thể với từng vụ án, các hướng luật sư có thể bào chữa cho bị cáo tội phạm này…

1. Cơ sở pháp lý quy định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là gì ?

Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm hình sự đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là Điều 132 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Thế nào là không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng ?

Một người bị coi là phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi có các dấu hiệu sau đây. Các dấu hiệu này là các cấu thành tội phạm mà khi có đủ các cấu thành tội phạm này thì mới có thể kết luận người đó phạm tội.

a. Chủ thể của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

b. Hành vi khi phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Hành vi khách quan:

Hành vi khách quan được quy định là hành vi không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tình trạng nguy hiểm tới tính mạng là khi người này đang bị đe doạ tính mạng, nếu không được hỗ trợ sẽ tử vong. Nguyên nhân gây ra tình trạng này có thể do nguyên nhân khách quan (tai nạn giao thông/lao động…, tình trạng bệnh tật nguy hiểm…) hay do chính người đó gây ra (tự sát)

Về phía người bị coi là phạm tội: người này phải có đủ điều kiện cứu giúp, ngăn chặn hậu quả chết người. Nếu không có đủ điều kiện, khả năng cứu giúp thì không thể truy tố người không cứu giúp.

Hậu quả:

Hậu quả là nạn nhân tử vong, lý do tử vong là do đã không được cứu giúp kịp thời. Nếu nạn nhân không tử vong thì không đủ cấu thành tội phạm này.

c. Lỗi của chủ thể tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Lỗi của chủ thể là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, đòi hỏi cần được cứu giúp. Người phạm tội cũng nhận thức được mình có đủ điều kiện cứu giúp, có đủ điều kiện có thể ngăn chặn được hậu quả chết người.

3. Các khung hình phạt đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là gì ?

Điều 132 Bộ luật hình sự 2015 quy định 3 khung hình phạt chính và 1 hình phạt bổ sung: thấp nhất là phạt cảnh cáo, cao nhất là phạt tù 2 năm:

a. Hình phạt theo khoản 1 điều 132 đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

b. Hình phạt theo khoản 2 điều 132 đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;

b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.

c. Hình phạt theo khoản 3 điều 132 đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

d. Hình phạt bổ sung đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

tội không cứu giúp người khác
Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có thể bị phạt tù tới 7 năm. – ảnh: Luật Thái An

4. Căn cứ quyết định mức hình phạt đối với người phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là gì?

Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 132, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

a. Các tình tiết tăng nặng đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Các tình tiết tăng nặng đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có thể là:

  • Phạm tội có tổ chức;
  • Phạm tội vì động cơ đê hèn;
  • Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
  • Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
  • Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
  • Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
  • Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

và các tình tiết tăng nặng khác được quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015

b. Các tình tiết giảm nhẹ đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Các tình tiết giảm nhẹ được quy định Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, các tình tiết giảm nhẹ có thể là:

  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  • Phạm tội do lạc hậu;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  • Người phạm tội tự thú;
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
  • Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  • Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
  • Người phạm tội đầu thú

Những lưu ý quan trọng:

Khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

c. Phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cùng với những người khác thì hình phạt thế nào?

Nếu đồng phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với phần đóng góp của mình trong vụ án. Dù tham gia ít hay nhiều vào việc phạm tội thì vẫn được coi là phạm tội. Căn cứ Điều 16 Bộ luật hình sự 2015 thì có các dạng đồng phạm sau:

  • Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
  • Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
  • Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
  • Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

d. Biết mà che giấu tội phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì có bị xử phạt không?

Nếu một người biết mà che giấu người phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cùng dấu vết, tang vật của vụ án hoặc cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm, căn cứ Điều 18 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể, mức hình phạt che giấu tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

Tuy nhiên, nếu người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

d. Khi nào được loại trừ trách nhiệm hình sự đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng?

Người phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu người đó đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ Điều 21 Bộ luật hình sự 2015.

đ. Có thể thay thế phạt tù bằng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không ?

Do tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thuộc loại tội nghiêm trọng nên Toà án có thể xem xét, cân nhắc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 06 tháng đến 03 năm, nếu người đó có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng, căn cứ Điều 36 Bộ luật hình sự 2015.

e. Nếu phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng gia đình người bị hại có đơn xin không truy tố thì có bị xử phạt không ?

Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, cho dù người bị hại có đơn xin không truy tố thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

f. Nếu phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và các tội khác đồng thời thì hình phạt sẽ thế nào?

Nếu phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và các tội khác đồng thời thì Toà án sẽ tổng hợp các hình phạt như sau, căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự 2015:

Đối với hình phạt chính:

  • Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
  • Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung;
  • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;
  • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;

Lưu ý quan trọng: Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù: cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

5. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là bao lâu?

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm.

6. Có nên mời luật sư tham gia vụ án tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không ?

Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
Các giai đoạn vụ án tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đều quy định về quyền được thuê luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa”.

Khi tham gia vụ án nói chung và vụ án không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nói riêng, luật sư sẽ:

  • Tư vấn luật hình sự để giúp cho bị cáo và thân nhân của bị cáo hiểu rõ hơn về quyền và lợi ích hợp pháp, từ đó có những hành động khôn ngoan và đúng đắn
  • Đảm bảo cho thân chủ (có thể là bị cáo hoặc bị hại) thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình:
    • Nếu thân chủ là bị cáo: giúp khỏi bị oan sai, không chịu hình phạt quá nặng so với hành vi phạm tội, được hưởng khoan hồng của pháp luật
    • Nếu thân chủ là bị hại: giúp bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp
  • Góp phần xác định sự thật của vụ án, bảo đảm các chứng cứ của vụ án được thu thập, kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, chính xác
  • Góp phần hạn chế những sai sót và/hoặc vi phạm của những người tham gia tố tụng (cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án…)

Vai trò của luật sư thể hiện trong tất cả các giai đoạn của vụ án gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… Chúng tôi phân tích cụ thể sau đây.

7. Khi nào nên mời luật sư tham gia vụ án về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng?

Theo quy định, luật sư được tham gia trong các giai đoạn sau đây của vụ án không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng: từ khi bị người tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam và trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng hiệu quả nhất là luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo ngay từ giai đoạn điều tra, tức là luật sư tham gia vụ án hình sự càng sớm càng tốt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, tránh nhục hình, tránh ép cung, dụ cung hoặc khai báo bất lợi cho bị can, bị cáo, tránh làm oan sai người vô tội.

Theo quy định, luật sư được tham gia trong các giai đoạn sau đây của vụ án:

a. Luật sư tham gia giai đoạn KHỞI TỐ VỤ ÁN về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:

Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra. Trong giai đoạn khởi này, luật sư sẽ:

  • xác định xem đã đủ điều kiện để khởi tố đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng hay chưa? Trên thực tế có những vụ án mà cơ quan tố tụng vội vàng khởi tố vụ án, khởi tố bị can khi mới chỉ có lời tố cáo của gia đình bị hại, thiếu những bằng chứng vật chứng về hành vi không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (chưa có giám định pháp y hay kết quả giám định, chưa có lời khai của người làm chứng…)
  • kiểm tra căn cứ, thẩm quyền và trình tự khởi tố vụ án xem đã tuân thủ quy định của pháp luật chưa

b. Luật sư tham gia giai đoạn ĐIỀU TRA VỤ ÁN về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:

Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra. Thời hạn điều tra vụ án về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là không quá 03 tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trường hợp cần gia hạn điều tra thì có thể gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng.

Trong giai đoạn điều tra, bị can có thể bị tam giam để phục vụ công tác điều tra. Thời gian tạm giam bị can tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là không quá 03 tháng. Thời hạn tạm giam có thể được gia hạn một lần không quá 02 tháng.

Trong giai đoạn điều tra hình sự, luật sư sẽ:

  • thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những chi tiết có lợi cho thân chủ trong vụ án
  • tham gia hỏi cung bị can, nếu có căn cứ cho rằng bị can bị ép cung, bị mớm cung thì luật sư sẽ can thiệp kịp thời
  • kiến nghị với cơ quan điều tra để thay đổi biện pháp ngăn chặn (chuyển từ tạm giam sang tại bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh…), triệu tập người làm chứng để lấy lời khai, thu thập chứng cứ, khắc phục hậu quả (thí dụ như tạo điều kiện để bị cáo bán tài sản để trả cho người bi hại)

c. Luật sư tham gia giai đoạn TRUY TỐ VỤ ÁN về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:

Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát. Lúc này cơ quan điều tra đã hoàn thành việc điều tra và chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát.

Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, Viện kiểm sát sẽ có quyết định truy tố trước Toà án, hoặc trả hồ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ/tạm đình chỉ vụ án, bị can, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày

Trong giai đoạn truy tố, luật sư sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án và đưa ra đề xuất, kiến nghị với viện kiểm sát nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. Các kiến nghị có thể là:

  • kiến nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: chuyển sang tội danh nhẹ hơn hoặc sang khung hình phạt nhẹ hơn, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
  • kiến nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung
  • kiến nghị để đình chỉ vụ án

d. Luật sư tham gia giai đoạn XÉT XỬ VỤ ÁN về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:

Đây là khi viện kiểm sát ra quyết định truy tố vụ án, truy tố bị can và chuyển hồ sơ sang toà án để xét xử. Đối với vụ án về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, Toà án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ / đình chỉ vụ án, trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án sẽ mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày.

Trong giai đoạn này, luật sư sẽ:

  • Nghiên cứu hồ sơ, trong quá trình này luật sư sẽ định hình hướng bảo chữa/bảo vệ cho thân chủ
  • Trao đổi với thân chủ để thống nhất hướng bào chữa, bảo vệ
  • Trao đổi với cơ quan tiến hành tố tụng về các vấn đề như yêu cầu thu thập thêm bằng chứng, xác định tội danh không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, đảm bảo sự có mặt của các nhân chứng tại phiên toà …
  • Chuẩn bị kế hoạch hỏi, luận cứ để tranh luận tại phiên toà

Phiên toà xét xử sơ thẩm là nơi luật sư thể hiện thành quả lao động của mình thể hiện qua phần hỏi để làm sáng tỏ tình tiết vụ án và tranh luận đưa ra quan điểm bào chữa hoặc bảo vệ cho thân chủ. Nội dung các phần này sẽ bám chặt vào định hướng bào chữa mà luật sư đã thống nhất với thân chủ, cụ thể sẽ trình bầy trong phần tiếp theo.

8. Hướng bào chữa tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng như thế nào?

Khi có căn cứ, luật sư có thể bào chữa cho bị cáo tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo một trong ba hướng sau đây:

a. Bào chữa cho bị cáo tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo hướng không phạm tội

Khi bào chữa theo hướng này thì luật sư sẽ khai thác các tình tiết vụ án, lời khai của các đương sự và người làm chứng mà có lợi cho thân chủ mình, một cách triệt để:

Không đủ yếu tố cấu thành tội phạm

Luật sư có thể chứng minh chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm như:

  • Chủ thể: Chủ thể chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (dưới 16 tuổi) trong trường hợp bị cáo rất trẻ và giấy khai sinh có sai sót
  • Hành vi:
    • Bị can, bị cáo không đủ sức khoẻ, không có điều kiện để cứu giúp, do nếu cứu giúp thì người đó cũng bị nguy hiểm…
    • Nạn nhân tử vong nhưng vì lý do khác mà không phải vì không được cứu giúp
    • Lời khai của người làm chứng, của gia đình bị hại, của các bị cáo khác, hồ sơ vụ án không đủ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.
  • Lỗi: Bị can/bị cáo không nghĩ hoặc không cho rằng nạn nhân sẽ tử vong…

Có thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự hay không ?

Nếu có căn cứ, luật sư có thể khai thác các tình tiết để đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong các trường hợp đã trình bầy ở phần trên (các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự).

b. Bào chữa cho bị cáo tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo hướng giảm nhẹ

Khi có căn cứ, luật sư có thể bào chữa cho bị cáo theo hướng giảm nhẹ về khung hình phạt đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, cụ thể như sau:

  • Về tình tiết định khung trong điều 132: Luật sư khai thác, phân tích các tình tiết để chứng minh bị cáo không phạm tội với những tình tiết định khung, để đề nghị chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn. Thí dụ người phạm tội tuy có trách nhiệm cứu giúp nạn nhân nhưng vào thời điểm xẩy ra sự việc thì người pham tội không trong thời gian làm việc theo quy định của cơ quan. Hoặc bị cáo không gây ra tình trạng nguy hiểm cho nạn nhân nên không thể chịu hình phạt theo khoản 2 điều 132. Hoặc chỉ có 1 nạn nhân tử vong do sự sơ suất của bị cáo, còn những người khác tử vong không thuộc phạm vi trách nhiệm chăm sóc của bị cáo.
  • Về động cơ, mục đích phạm tội: Luật sư phân tích người phạm tội do quá mệt mỏi nên đã xẩy ra sơ suất trong công việc, không hề mong muốn gây ra hậu quả…
  • Về nhân thân của người phạm tội: Luật sư phân tích để cho thấy bị cáo chưa có tiền án tiền sự, là người lao động chăm chỉ và nghiêm túc.
  • Luật sư phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
    • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: người phạm tội tự nguyện chi trả chi phí khám chữa bệnh, mai táng cho nạn nhân, thăm hỏi gia đình nạn nhân, hỗ trợ vật chất cho người thân của nạn nhân
    • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
    • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
    • Người phạm tội tự thú;
    • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
    • Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
    • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
    • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
    • Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

c. Bào chữa cho bị cáo tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo hướng điều tra bổ sung

Căn cứ Điều 245 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật sư có thể đề xuất Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau:

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được:

  • Chứng cứ để chứng minh có hành vi phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng xảy ra hay không?
  • Chứng cứ để chứng minh thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội
  • Chứng cứ để chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội
  • Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng theo cáo trạng của Viện kiểm sát là gì?

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng:

  • Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
  • Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
  • Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
  • Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;
  • Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
  • Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
  • Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;
  • Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
  • Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
  • Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
  • Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Lưu ý: Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng đã cản trở, đưa ra những yêu vô lý từ chối đăng ký bào chữa, không tạo điều kiện cho thân nhân và người bào chữa được gặp người bị buộc tội khi người bị buộc tội từ chối người bào chữa.

 Lưu ý: Cần lưu ý rằng việc bào chữa theo hướng này sẽ kéo dài thời giai xét xử vụ án.

9. Dịch vụ thuê luật sư bào chữa tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của Luật Thái An

Sử dụng dịch vụ luật sư tư vấn và tham gia tố tụng (luật sư bào chữa) là sự lựa chọn rất khôn ngoan.

Với bề dầy kinh nghiệm tham gia các vụ án hình sự cùng sự tận tâm, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, các luật sư Công ty Luật Thái An sẽ tham gia tố tụng với tư cách luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc luật sư bảo vệ người bị hại trong các vụ án hình sự. Chúng tôi sẽ luôn nỗ lực tối để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ (khách hàng) với mức thù lao hợp lý.

Nguyễn Văn Thanh