Cấm đi khỏi nơi cư trú: Theo quy định của pháp luật hình sự

Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong 08 biện pháp ngăn chặn đã được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015). Theo đó, tại Điều 123 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về đối tượng áp dụng; nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Thông qua bài viết dưới đây, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn về biện pháp ngăn chặn nêu trên như sau.

1. Điều kiện và đối tượng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Tại Khoản 1 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định:

Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án.

Khác với các biện pháp tạm giữ, tạm giam, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có điểm khác biệt là không cách ly bị can, bị cáo khỏi gia đình, xã hội và họ vẫn được tiếp tục làm việc nhưng đổi lại họ sẽ bị hạn chế quyền tự do cư trú và đi lại của mình trong một thời hạn nhất định.

Do đó, chỉ những bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng mới được áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú.

Mục đích của viện áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm soát, Tòa án triệu tập.

2. Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Khoản 2 Điều 123 BLTTHS 2015. Theo đó, bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau:

  • Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;
  • Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
  • Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
  • Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
  • Trường hợp bị can, bị can vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền, xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (Khoản 5 Điều 123 BLTTHS 2015).

Nếu bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ cam đoan quy định tại Khoản 2 Điều 123 BLTTHS 2015 nêu trên thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.

Đối với bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ cam đoan sẽ bị áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật.

cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là 1 trong 8 biện pháp ngăn chặn trong pháp luật hình sự Việt Nam.

3. Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 123 BLTTHS 2015:

“Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”.

Từ quy định trên, có thể thấy rằng, thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ tùy thuộc vào từng giai đoạn và được quy định như sau:

  • Giai đoạn điều tra: Do cơ quan điều tra quyết định nhưng không được quá thời hạn điều tra.
  • Giai đoạn truy tố: Do Viện kiểm sát quyết định nhưng không được quá thời hạn truy tố.
  • Giai đoạn xét xử: Do Tòa án quyết định nhưng không được quá thời hạn xét xử.
  • Người bị kết án phạt tù: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

4. Thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 123 BLTTHS 2015, thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được thực hiện bởi những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Cụ thể, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bao gồm:

  • Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
  • Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp.
  • Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, Hội đồng xét xử.
  • Ngoài ra, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng cũng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo.

Những người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ có trách nhiệm phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cao và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ (Khoản 5 Điều 123 BLTTHS 2015).

5. Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị hủy bỏ khi nào?

Khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế quyền tự do cư trú và đi lại của mình trong một thời hạn nhất định. Tuy nhiên, biện pháp ngăn chặn này sẽ bị hủy bỏ hoàn toàn nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều 125 BLTTHS 2015.

Theo đó, mọi biện pháp ngăn chặn trong đó bao gồm biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị hủy bỏ nếu thuộc một trong các trường hợp:

  • Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
  • Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;
  • Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
  • Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ; hoặc
  • Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết.

Lưu ý:

Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ phải do Viện kiểm sát quyết định;

Trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.

Hồ sơ đề nghị hủy bỏ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm:

  • Văn bản đề nghị của Cơ quan điều tra nêu rõ căn cứ, lý do đề nghị hủy bỏ áp dụng biện pháp ngăn chặn;
  • Chứng cứ, tài liệu là căn cứ để Cơ quan điều tra đề nghị hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.

Trên đây là một số nội dung liên quan đến biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của pháp luật hình sự mà chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ vấn đề pháp lý nào cần được hỗ trợ, vui lòng liên hệ với chúng tôi.

Nguyễn Văn Thanh