Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Những điều cần biết!

Trong mỗi xã hội, luôn tồn tại một bộ phận dân số phải đối mặt với những khó khăn đáng kể về chức năng nhận thức và khả năng tự kiểm soát hành vi thường được gọi là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Những cá nhân này gặp phải những trở ngại riêng trong cuộc sống hàng ngày của họ. Việc giải quyết nhu cầu của họ và đảm bảo quyền của họ không chỉ là nghĩa vụ đạo đức mà còn là một bước tiến tới xây dựng một xã hội bao trùm và nhân ái hơn.

Bài viết này của Công ty Luật Thái An khám phá những quy định pháp lý về đối tượng này, các biện pháp bảo vệ pháp lý có sẵn tại Việt Nam và các bước thực tế cần thiết để thúc đẩy sự hiểu biết và hỗ trợ.

1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Cơ sở pháp lý điều chỉnh quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là các văn bản pháp luật sau đây:

2. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là ai?

Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải là người đáp ứng các điều kiện sau:

  • Là Thanh niên (người từ đủ 18 tuổi trở lên), do tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khăn năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự: Tình trạng thể chất hoặc tinh thần dẫn đến không đủ khă năng nhận thức, làm chủ hành vi có thể là trường hợp cá nhân bất chợt bị tâm thần nhưng chưa đến mức không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình (Ví dụ: Người mắc bệnh Down); người bị tai nạn phải nằm điều trị lâu ngày trong bệnh viện
  • Theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan về việc xác định là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
  • Trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, được Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

3. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có giống người mất năng lực hành vi dân sự không?

Những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khác với người mất năng lực hành vi dân sự bởi:

  • Người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng để nhận thức và hành động một cách đúng đắn theo ý chí của mình, nên họ không có đủ khả năng để hiểu và làm chủ được hành vi của mình.
  • Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không mất hoàn toàn khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, một phần nào đó họ vẫn hiểu, nhận thức được hành vi của mình nhưng không đầy đủ như người bình thường.

4. Khi nào thì một người được xác định là người có khó khăn nhận thức, làm chủ hành vi?

Một người chỉ bị coi là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi người này bị Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Như vậy, quyết định của Tòa án là căn cứ, cơ sở để xác định một người có phải là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không.

Theo khoản 1 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định về thẩm quyền của Tòa án thì một trong những  yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Theo Điều 376 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì những người sau đây có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:

  • Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự.
  •  Người thành niên không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi do tình trạng thể chất, tinh thần nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố họ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự.

Việc quyết định tuyên bố một người có khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định tại Điều 378 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như sau:

  •  Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
  •  Trong quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải xác định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
  •  Trong quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

5. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có được tự quyết trong việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự không?

Bộ luật dân sự quy định việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật dân sư, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.

Căn cứ Điều 125 Bộ luật dân sự quy định khi giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi  xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp:

  • Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.
  • Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

6. Người đại diện theo pháp luật, người giám hộ  của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là ai?

Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

  • Theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật dân sự năm 2015 thì trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
  •  Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
  • Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ bị hạn chế trong việc thực hiện giao dịch dân sự bởi vì mọi giao dịch của họ đều được thông qua người đại diện hợp pháp của họ được Tòa án chỉ định.

Theo quy định tại khoản 4 điều 54 Bộ luật dân sự 2015 thì người được chỉ định làm người đại điện theo pháp luật của người có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi bao gồm:

  • Trường hợp vợ là người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì chồng là người giám hộ nếu chồng là người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì vợ là người giám hộ.
  • Trường hợp cha và mẹ đều có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi hoặc một người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.
  • Trường hợp người thành niên có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.

Nếu trong trường hợp không có người giám hộ nêu trên thì Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.

người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Người đại diện của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là ai? – Nguồn: Luật Thái An

Căn cứ Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

“Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân

1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”

Theo đó, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nếu được Tòa án chỉ định.

7.  Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

 Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ sau đây:

  •  Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
  •  Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
  •  Quản lý tài sản của người được giám hộ;
  •  Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

8. Hủy quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Khoản 2 Điều 23 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

“Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

Như vậy, khi một người không còn căn cứ để tuyên bố có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người này có thể tự yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Ngoài ra, pháp luật còn cho phép những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc cơ quan tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Một người chỉ được coi là đã phục hồi đầy đủ năng lực hành vi dân sự khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Khi Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ được khôi phục bình thường. Khi đó người này có quyền tham gia xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự.

9. Những thách thức trong việc bảo vệ quyền của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Bảo vệ quyền của những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là một khía cạnh quan trọng trong việc xây dựng một xã hội hòa nhập và công bằng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức cản trở việc hỗ trợ hiệu quả và hiện thực hóa các quyền của họ. Dưới đây là một số trở ngại quan trọng nhất:

  •  Thiếu nhận thức và hiểu biết: Một trong những thách thức chính là thiếu nhận thức của công chúng về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Nhiều cá nhân và cộng đồng hiểu sai bản chất của những tình trạng này, dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Gia đình và người chăm sóc thường phải đối mặt với sự phán xét và cô lập, khiến họ không muốn tìm kiếm sự hỗ trợ cần thiết.
  • Quyền tiếp cận hạn chế với các dịch vụ chuyên khoa: Việc tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội dành riêng cho những cá nhân có khó khăn về nhận thức và hành vi vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở những vùng nông thôn hoặc vùng chưa được phục vụ đầy đủ.
  •  Không đủ các biện pháp bảo vệ và thực thi pháp luật: Mặc dù có khuôn khổ pháp lý ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, để bảo vệ quyền của người khuyết tật, nhưng việc thực thi vẫn chưa nhất quán.
  •  Rào cản kinh tế: Việc cung cấp dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ đầy đủ cho những cá nhân có vấn đề về nhận thức và hành vi thường gây ra gánh nặng tài chính đáng kể cho các gia đình.

10. Sự cần thiết sử dụng dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Dịch vụ tư vấn pháp lý cho người chưa thành niên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và đảm bảo phúc lợi của trẻ theo luật pháp Việt Nam. Trẻ chưa thành niên là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, phải đối mặt với những thách thức pháp lý đặc biệt trong các lĩnh vực như giao dịch dân sự, trách nhiệm hình sự, tranh chấp gia đình và bảo vệ khỏi bị lạm dụng hoặc bóc lột.

Việc sử dụng dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật người chưa thành niên giúp:

  • Làm rõ quyền và trách nhiệm: Giúp trẻ chưa thành niên và người giám hộ hiểu được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
  • Giải quyết tranh chấp: Hỗ trợ trong các tranh chấp gia đình, tranh chấp quyền nuôi con, xung đột thừa kế và giao dịch dân sự.
  • Đảm bảo đại diện công bằng: Bảo vệ trẻ vị thành niên trong các vụ án hình sự và thúc đẩy kết quả tập trung vào phục hồi chức năng.
  • Ngăn ngừa lạm dụng và bóc lột: Cung cấp hướng dẫn pháp lý và hành động trong các trường hợp bị bỏ bê, ngược đãi hoặc buôn bán người.
  • Điều hướng các quy trình pháp lý phức tạp: Hỗ trợ việc nhận con nuôi, quyền giám hộ và các thỏa thuận tài chính.
  • Giáo dục gia đình: Nâng cao nhận thức của cha mẹ về trách nhiệm của họ và quyền lợi của trẻ vị thành niên.

Bằng cách tận dụng các dịch vụ tư vấn pháp lý chuyên nghiệp, các gia đình có thể ngăn ngừa rủi ro pháp lý, đảm bảo tuân thủ các quy định và cung cấp môi trường an toàn và hỗ trợ để trẻ vị thành niên phát triển và thành công.

Các vấn đề pháp lý có thể phức tạp và đối với những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, việc giải quyết những vấn đề này thậm chí còn khó khăn hơn. Trong những trường hợp như vậy, sự hỗ trợ của cố vấn pháp lý hoặc luật sư đủ tiêu chuẩn trở nên cần thiết để bảo vệ quyền của họ, đảm bảo tuân thủ các yêu cầu pháp lý và cung cấp hướng dẫn rất cần thiết. Sau đây là những lý do chính tại sao các dịch vụ tư vấn pháp lý là cần thiết đối với những cá nhân có vấn đề về nhận thức và hành vi:

  •  Bảo vệ quyền và lợi ích: Luật sư đảm bảo rằng các quyền của cá nhân được duy trì trong các thủ tục tố tụng pháp lý; đại diện cho cá nhân trong các tranh chấp hoặc đàm phán để bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ: Luật sư có thể hỗ trợ trong các trường hợp tranh chấp về thừa kế hoặc tài sản để ngăn chặn bất kỳ sự phân phối tài sản không công bằng nào.
  •  Giải quyết các thủ tục pháp lý phức tạp: Các quy trình pháp lý, chẳng hạn như chỉ định người giám hộ hợp pháp hoặc tiếp cận các chế độ trợ cấp khuyết tật, thường liên quan đến các bước dài và phức tạp.
  •  Đảm bảo tuân thủ nghĩa vụ pháp lý: Đối với những cá nhân có khó khăn về nhận thức và hành vi, cố vấn pháp lý có thể giúp đảm bảo rằng hành động hoặc quyết định của họ tuân thủ luật pháp, ngăn ngừa các hành vi vi phạm vô ý. Ví dụ về nhu cầu tuân thủ pháp luật, Ký hợp đồng hoặc thỏa thuận pháp lý; Đáp ứng các nghĩa vụ thuế hoặc tài chính.
  •  Tiếp cận các chế độ phúc lợi: Luật sư giúp xác định các chế độ phúc lợi có sẵn và tiêu chí đủ điều kiện; Soạn thảo và nộp đơn thay mặt cho cá nhân.
  •  Giảm căng thẳng cho gia đình và người chăm sóc: Gia đình và người chăm sóc thường phải chịu gánh nặng về mặt tình cảm và tài chính đáng kể khi hỗ trợ những cá nhân gặp khó khăn về nhận thức và hành vi. Các cố vấn pháp lý có thể giảm bớt gánh nặng này bằng cách xử lý hiệu quả các vấn đề pháp lý phức tạp.

Kết luận

Giải quyết những thách thức trong việc bảo vệ quyền của những cá nhân gặp khó khăn về nhận thức và hành vi đòi hỏi một cách tiếp cận đa chiều. Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng và gia đình phải hợp tác để cải thiện các biện pháp bảo vệ pháp lý, mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ, chống lại sự kỳ thị và cung cấp hỗ trợ tài chính và tinh thần.

Luật sư cung cấp sự hỗ trợ quan trọng trong việc bảo vệ quyền, điều hướng các hệ thống pháp lý phức tạp và đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ và quyền lợi thiết yếu. Đối với các gia đình và người chăm sóc, sự tham gia của cố vấn pháp lý mang lại sự an tâm và giảm căng thẳng, cho phép họ tập trung vào việc chăm sóc.

Đội ngũ chuyên gia pháp lý của chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn trong mọi vấn đề pháp lý —hãy liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ pháp lý phù hợp!

Đàm Thị Lộc