VỤ ÁN ĐÒI NỢ: TOÀ TUYÊN CON NỢ PHẢI TRẢ TIỀN CHO KHÁCH HÀNG

Công ty Luật Thái An chuyên sâu tư vấn pháp luật và giải quyết tranh chấp, trong đó có tham gia các vụ án đòi nợ, được nhiều khách hàng và đối tác tin tưởng. Hàng năm Luật Thái An luôn có một lượng khách hàng lớn với tỷ lệ thu hồi công nợ thành công cao. Các vụ án đòi nợ phát sinh công nợ rất đa dạng từ Kinh doanh thương mại, thi công xây dựng đến hợp tác kinh doanh, dự án đầu tư… Vậy tại sao Khách hàng lại lựa chọn Công ty Luật Thái An. Hãy cùng tìm hiểu vấn đề này qua một vụ án đòi nợ thực tế như sau.

Xin lưu ý: Vì lý do bảo mật thông tin khách hàng, trong bài viết này chúng tôi mã hoá tên các đương sự cũng như một số thông tin liên quan khác.

Bối cảnh vụ án đòi nợ, loại tranh chấp và giá trị tranh chấp

Đây là vụ tranh chấp kinh doanh thương mại giữa Công ty A (Bên mua) với Công ty B (Bên bán) là hai doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.

Bối cảnh cụ thể của vụ án đòi nợ đòi nợ giữa hai công ty lĩnh vực khai thác khoáng sản

Công ty A và Công ty B là đối tác kinh doanh của nhau. Trong quá trình hợp tác, hai bên đã ký kết Hợp đồng số 37-2015 và Hợp đồng số 13-2016. Theo đó, Công ty B có nghĩa vụ giao đúng và đủ số lượng thiếc trong thời hạn, còn Công ty A có nghĩa vụ thanh toán.

Sau khi ký hợp đồng, theo yêu cầu của Công ty B, Công ty A đã tạm ứng cho Công ty B số tiền dưới đây:

  • Tạm ứng cho Hợp đồng số 37-2015 số tiền là 3.100.000.000 đồng (Ba tỷ, một trăm triệu đồng), có ủy nhiệm chi kèm theo;

Đối với khoản tạm ứng ban đầu cho Hợp đồng số 37-2015 là 3.100.000.000 đồng đã được thanh toán cho 4 hợp đồng ký sau đó với giá trị lần lượt là:  Hợp đồng số 07 là 120.504.795 đồng; thanh toán cho Hợp đồng số 08 là 345.075.633 đồng; thanh toán cho Hợp đồng số 12 là 150.000.000 đồng và thanh toán cho Hợp đồng số 44 là 305.880.150 đồng.

Như vậy, số tiền tạm ứng còn lại cho Hợp đồng số 37-2015 là 2.178.539. 422 đồng (Hai tỷ, một trăm bảy mươi tám triệu, năm trăm ba mươi chín nghìn, bốn trăm hai mươi hai đồng).

  • Tạm ứng cho Hợp đồng số 13-2016 số tiền là 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

Theo Hợp đồng số 37-2015 và Hợp đồng số 13-2016, thời hạn Công ty B phải giao hàng là ngày 31/03/2016 và ngày 15/06/2016 nhưng đến nay Công ty B vẫn không giao hàng.

Năm tháng sau, các bên đã lập Biên bản đối chiếu công nợ số 02-2017/ĐCCN. Theo đó, Công ty B sẽ không giao hàng và có nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty A số tiền nợ 5.536.975.547 đồng, bao gồm:

  • Số tiền tạm ứng còn lại cho Hợp đồng số 37-2015:  2.178.539. 422 đồng
  • Số tiền còn lại tạm ứng cho Hợp đồng số 13-2016: 3.000.000.000 đồng
  • Lãi phát sinh tạm tính nhưng chưa giao hàng (đến ngày 31/12/2016): 358.436.125 đồng.

Do Công ty B không trả nợ nên Công ty A nhờ Luật Thái An khởi kiện để đòi khoản nợ nêu trên.

Tóm lại: Đây là vụ tranh chấp kinh doanh thương mại giữa Công ty A và Công ty B mà cụ thể là tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ theo Hợp đồng số 37-2015 và Hợp đồng số 13-2016. Giá trị tranh chấp là 5.536.975.547 đồng

Yêu cầu của khách hàng đối với vụ án đòi nợ như thế nào?

Khách hàng là Công ty A có yêu cầu Công ty Luật Thái An khởi kiện đòi nợ Công ty B với số tiền nợ 5.536.975.547 đồng, trong đó:

  • Số tiền tạm ứng còn lại cho Hợp đồng số 37-2015:  2.178.539. 422 đồng
  • Số tiền còn lại tạm ứng cho Hợp đồng số 13-2016: 3.000.000.000 đồng
  • Lãi phát sinh tạm tính nhưng chưa giao hàng (đến ngày 31/12/2016): 358.436.125 đồng.
tranh chấp vụ án đòi nợ
Luật sư Công ty Luật Thái An đã giúp khách hàng thắng kiện trong vụ án đòi nợ. – Ảnh: Luật Thái An

Khó khăn của vụ án đòi nợ là gì?

Khi trao đổi, tiếp nhận thông tin khách hàng, Luật sư đã căn cứ vào các thông tin mà Khách hàng cung cấp, đối với các tài liệu, chứng cứ kèm theo để chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn của Công ty B. Theo đó, sau khi nghiên cứu hồ sơ, và từ thực tiễn giải quyết vụ án đòi nợ, Luật sư đã gặp phải những khó khăn của vụ án đòi nợ này như sau:

Khó khăn số 1: Khó khăn liên quan đến tài liệu, chứng cứ chứng minh công nợ trong vụ án đòi nợ:

Biên bản đối chiếu công nợ số 02-2017/ĐCCN là một tài liệu rất quan trọng trong vụ án (là chứng cứ chứng minh công nợ và chứng minh căn cứ khởi kiện) nhưng có nhiều lỗi:

  • Thứ nhất, Biên bản đối chiếu công nợ số 02-2017/ĐCCN năm 2017 có ghi “Công ty B không giao hàng và sẽ hoàn trả lại số tiền đã tạm ứng cho công ty A trong tháng 11 theo nội dung công văn số 14/CV ngày 17/07/2016”

Tuy nhiên không hề tồn tại Công văn này và thời điểm “Tháng 11” là một mốc thời gian vô định vì không xác định được năm nào, có thể là tháng 11/2018, tháng 11/2020… Do đó Tòa Án nhân dân huyện X có đủ căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố Tụng Dân sự 2015 với lý do “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” có nghĩa là tại thời điểm khởi kiện quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty A vẫn chưa bị xâm phạm.

Công ty B vẫn còn thời hạn để trả nợ đến tháng 11/…. năm nào đó chưa xác định rõ. Do đó vụ án sẽ không được thụ lý.

  • Thứ hai, ghi sai ngày Hợp đồng số 13-2016 và Hợp đồng số 37-2015

Tòa án yêu cầu Công ty A cung cấp được Hợp đồng số 37-2015 ngày 06/10/2015 và Hợp đồng số 37-2015 ngày 05/11/2015, Hợp đồng số 13-2016 từ ngày 28/04/2016 để làm chứng cứ chứng minh cho nội dung Biên Bản đối chiếu công nợ số 02-2017/ĐCCN. Tuy nhiên Công ty A không cung cấp được.

Thẩm phán ở Toà án nhân dân huyện X đã phát hiện ra toàn bộ lỗi trên và có thể không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Khó khăn thứ hai: Khó khăn từ phía Bị đơn – Công ty B:

  • Một là, vì Bị đơn có trụ sở ở một huyện miền núi ở tỉnh N, khoảng cách địa lý cũng là khó khăn của Luật sư trong quá trình liên hệ, làm việc.
  • Hai là, Bị đơn là công ty B hiện công ty đã không còn hoạt động tại trụ sở. Khi đi xác minh thì toàn bộ công ty chỉ còn 1 người bảo vệ trông coi, không hoạt động. Điều này gây khó khăn trong việc xác minh địa chỉ trụ sở của bị đơn làm hồ sơ khởi kiện.
  • Ba là, người đại diện theo pháp luật của Công ty B không còn sống ở nơi cư trú (theo thông tin nắm được thì người đại diện của Công ty B đang sống ở Lào). Vì vậy, vụ án đòi nợ không thể đàm phán, thương lượng tiền tố tụng do không tìm được người đại diện theo pháp luật.

Như vậy, với các vấn đề ở trên, có thể thấy rằng việc Công ty A khởi kiện Công ty B để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là không hề dễ dàng và vụ án đòi nợ có nguy cơ không thể khởi kiện được.

Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phía Luật sư phải có nhiều kinh nghiệm chuyên môn, kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và kỹ năng thu thập chứng cứ của Luật sư trong bối cảnh không có đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cũng như các vấn đề liên quan đến điều kiện khởi kiện, thụ lý vụ án của Tòa án.

Quá trình giải quyết vụ án đòi nợ của Luật sư

Khi đã phân tích nghiên cứu hồ sơ và tình hình thực tiễn, các Luật sư của Công ty Luật Thái An đã lập phương án, thực hiện từng bước để vụ án đòi nợ được Tòa án thụ lý và đạt được kết quả như mong muốn như sau:

  1. Đối với khó khăn trong việc xác minh địa điểm trụ sở của Bị đơn, Luật sư đã giải quyết bằng cách làm việc với Sở kế hoạch đầu tư tỉnh N để xin được xác nhận địa chỉ của bị đơn để nộp hồ sơ khởi kiện trong một buổi làm việc (thực tế theo quy định thời gian này mất khoảng 05 ngày làm việc). Sau đó, Luật sư nộp hồ sơ khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết ngay trong ngày.
  2. Luật sư đã tư vấn phương án để Toà án chấp nhận các lỗi sai trong Biên Bản đối chiếu công nợ số 02-2017/ĐCCN và vẫn thụ lý, giải quyết vụ án.
  3. Tại phiên Toà, Luật sư đã đưa ra đầy đủ chứng cứ, quan điểm để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như: Việc không giao hàng đồng thời không chuyển trả tiền tạm ứng hợp đồng của Công ty B đã vi phạm các quy định của pháp luật như sau:
  • Điều 278 Bộ Luật dân sự 2015 về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự
  • Điều 351 Bộ Luật dân sự 2015 về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
  • Điều 434 Bộ Luật dân sự 2015 về thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
  • Điều 37 Luật Thương mại 2005 về thời hạn giao hàng:
  • Ngoài ra việc không giao hàng của Công ty B đã vi phạm cơ bản Hợp đồng theo quy định của Khoản 13, Điều 3 Luật Thương mại 2005.

Bằng các luận cứ cũng như tài liệu, chứng cứ sau quá trình thu thập đã chứng minh Công ty A có đủ căn cứ để hủy hợp đồng theo quy định của Điều 312 Luật Thương mại 2005. Sau khi hủy hợp đồng, Công ty B phải thanh toán cho Công ty A những khoản tạm ứng chưa giao hàng cùng với tiền lãi phát sinh trên số tiền tạm ứng đó theo quy định của Điều 314 và Điều 306 Luật Thương mại 2005.

Luật sư có vai trò rất quan trọng trong vụ án đòi nợ giữa hai doanh nghiệp
Luật sư có vai trò rất quan trọng trong giải quyết vụ án đòi nợ giữa hai doanh nghiệp – Nguồn: Luật Thái An

Kết quả đạt được và thành công của vụ án đòi nợ là gì?

Kết quả: Toà án tuyên Công ty B phải trả toàn bộ nợ cho Công ty A theo như yêu cầu khởi kiện.

Như vậy, với sự tham gia của Luật sư Luật Thái An, Công ty A đã thắng kiện, Công ty B có trách nhiệm phải trả toàn bộ khoản nợ theo Bản án của Tòa án có thẩm quyền và Đại diện Công ty A và Công ty B vẫn hoà hảo, tay bắt mặt mừng, giữ được mối quan hệ giữa hai bên.

Các luật sư tham gia vụ án đòi nợ là ai?

Các luật sư của Công ty Luật Thái An đã tham gia giải quyết vụ án đòi nợ trên gồm: Luật sư Nguyễn Văn Thanh, Luật sư Đàm Thị Lộc

Như vậy, có thể thấy việc khởi kiện ra Tòa án để thu hồi nợ là điều không hề đơn giản, nhất là khi thiếu các tài liệu, chứng cứ chứng minh sự vi phạm về nghĩa vụ thanh toán của bên đối tác.

Điều này đòi hỏi kỹ năng và kinh nghiệm của Luật sư, từ khâu đánh giá, phân tích hồ sơ, cơ sở pháp lý, điều kiện thu hồi nợ cho đến khi đại diện khách hàng tham gia toàn bộ quá trình giải quyết vụ án đòi nợ tại Tòa án, tiến hành tranh tụng tại Tòa cũng như đại diện làm việc với cơ quan thi hành án để đảm bảo thu hồi khoản nợ.

Dịch vụ luật sư tham gia vụ án đòi nợ của Luật Thái An

Các vụ việc đòi nợ giữa các cá nhân, pháp nhân không ngừng tăng trong một xã hội phức tạp và năng động. Ngày nay, Chính phủ đã cấm các dịch vụ đòi nợ thuê của các công ty dịch vụ do các hành vi phá rối trật tự xã hội và xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các con nợ.

Hiện chỉ cho phép các công ty luật, văn phòng luật sư được hỗ trợ khách hàng đòi nợ trong các giai đoạn tiền tố tụng và tố tụng tại Toà án.

Nguyễn Văn Thanh