Có những hướng bào chữa hình sự nào?

Xác định hướng bào chữa là phần việc căn bản của luật sư trong vụ án hình sự, sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, nắm được các tình tiết của vụ việc một cách đầy đủ. Việc này là cực kỳ quan trọng và nó cũng là định hướng để luật sư đặt các câu hỏi tại phiên xét xử và chuẩn bị bản luận cứ. Việc bào chữa của luật sư có thể theo các hướng sau:

1. Hướng bào chữa bị can không có tội:

Bào chữa theo hướng không có tội là khó khăn nhất đối với luật sư. Để làm được việc này thì cần phải có những căn cứ nhất định và luật sư cần “bám chặt” vào các căn cứ này để khai thác, tìm chứng cứ, thu thập chứng cứ ở mức tối đa. Luật sư sẽ phải nghiên cứu hồ sơ rất kỹ để bào chữa theo một các hướng sau:

a. Hướng bào chữa hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm

Theo hướng này, luật sư sẽ phân tích các chứng cứ làm rõ hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố, có thể chứng minh thiếu một hoặc nhiều yếu tố cấu thành tội phạm. Tùy vào từng vụ án, luật sư phân tích các chứng cứ chỉ rõ các vấn đề sau:

  • không đủ yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố
  • không thỏa mãn yếu tố chủ thể của tội phạm (thí dụ: người phạm tội không đủ 18 tuổi, người không có chức vụ, quyển hạn bị truy tố về tội tham ô tài sản)

b. Hướng bào chữa bị cáo phạm tội khi phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc khi có sự kiện bất ngờ

Luật sư phân tích chứng cứ làm rõ sự việc xảy ra thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự quy định từ điều 20 tới điều 26 Bộ luật hình sự 2015, đó là:

  • Sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Phòng vệ chính đáng: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

  • Tình thế cấp thiết: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội: Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ: Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm. Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

c. Hướng bào chữa bị cáo có chứng cứ ngoại phạm

Trong trường hợp này, luật sư phải đánh giá chứng cứ làm rõ độ tin cậy của các chứng cứ ngoại phạm của bị cáo từ đó khẳng định bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.

các hướng bào chữa
Các hướng bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình sự.

2. Hướng bào chữa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trường hợp có căn cứ pháp lý vững chắc khẳng định bị can phạm tội thì luật sư sẽ nghiên cứu để bào chữa theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo các phương án sau:

a. Hướng bào chữa chuyển sang tội danh nhẹ hơn

Luật sư phân tích hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm bị truy tố. Luật sư nghiên cứu hồ sơ và đưa ra những tình tiết để thuyết phục Hôi đồng xét xử rằng hành vi của bị cáo cấu thành tội phạm nhẹ hơn.

Thí dụ:

Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Giết người”, có thể dựa vào hành vi khách quan làm sáng tỏ yếu tố lỗi thuộc mặt chủ quan để bào chữa chuyển sang tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”, “Cố ý gây thương tích”.

Trường hợp Viện kiểm sát truy tố tội “Cướp tài sản” thì luật sư nghiên cứu xem có thể tìm ra căn cứ nào trong hành vi và tình huống phạm tội để chuyển sang tội “Cưỡng đoạt tài sản” hoặc tội “Trộm cắp tài sản”.

Trường hợp Viện kiểm sát truy tổ bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì luật sư nghiên cứu bào chữa chứng minh bị cáo không có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà việc có được tài sản là dựa vào hợp đồng ngay thẳng sau đó mới không trả lại tài sản để đề nghị chuyển sang tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Hiếp dâm” có thể bào chữa chứng minh bị cáo không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giao cấu mà chỉ dùng thủ đoạn khiến người bị hại phải miễn cưỡng giao cấu để đề nghị chuyển sang tội “Cưỡng dâm”…

b. Hướng bào chữa chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn

Trường hợp Viện kiểm sát nhận định hành vi phạm tội của bị cáo thuộc các điểm theo khung tăng nặng của điều luật, luật sư phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi của bị cáo không có các tình tiết định khung tăng nặng đó.

Có nhiều trường hợp mà những tình tiết định khung tăng nặng mà việc áp dụng hay không áp dụng tùy thuộc nhiều vào việc đánh giá của người tiến hành tố tụng như:

  • các tình tiết “phạm tội có tổ chức”, “có tính chất côn đồ”, “vì động cơ đê hèn”…
  • các mức định giá tài sản đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu
  • các mức đánh giá tỷ lệ thương tật đối với các tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người

Khi đó, luật sư phân tích tổng hợp các chứng cứ của vụ án từ nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội, thái độ tầm lý, các xử sự trong cuộc sống của bị cáo và bị hại, những sai trái của bị hại dẫn đến tinh thần bị cáo bị kích động… để làm rõ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát mang tính khiên cưỡng, không có cơ sở chấp nhận.

c. Hướng bào chữa giảm nhẹ hình phạt

Hướng bào chữa bị cáo không đóng vai trò tích cực trong vụ án

Trong các vụ án có nhiều bị cáo, luật sư khai thác các tình tiết trong vụ án có lợi cho thân chủ như chứng minh thần chủ của mình tham gia vụ án không tích cực, không phải là người tổ chức, người xúi giục mà chỉ tham gia với vai trò giúp sức.

Trong trường hợp này, luật sư viện dẫn khoản 2 điều 54 Bộ Luật hình sự 2015 để yêu cầu Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt dưới mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Hướng bào chữa tìm nhiều tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo

Trường hợp Viện kiểm sát truy tố đúng người, đúng tội, luật sư có thể bào chữa theo hướng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ để để xuất áp dụng mức hình phạt thấp trong khung hình phạt, căn cứ khoản 1 điều 54 Bộ luật hình sự 2015:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 Bộ Luật hình sự 2015 là:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Hướng bào chữa án treo

Nếu Viện kiểm sát truy tố bị cáo và đề xuất hình phạt tù không quá 3 năm thì luật sư có thể viên dẫn Khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 để yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét xử án treo:

Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

3. Hướng bào chữa trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Nếu bào chữa theo hướng này thì luật sư tìm căn cứ để để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung, yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ khi thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;

c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật hình sự 2015 là:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

Khi bào chữa theo hướng này, luật sư sẽ lưu ý cho khách hàng về việc giải quyết vụ án sẽ kéo dài.

4. Dịch vụ thuê luật sư hình sự của Luật Thái An

Các luật sư Công ty luật Thái An có nhiều kinh nghiệm bào chữa cho bị cáo, bảo vệ cho bị hại trong các vụ án hình sự. Chúng tôi sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng tối đa, chúng tôi làm việc với sự tận tâm, uy tín, thù lao hợp lý:

>>> Xem thêm: Dịch vụ thuê luật sư khởi kiện vụ án

Nguyễn Văn Thanh

HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG 

Bề dày 16+ năm kinh nghiệm Tư vấn pháp luật và Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, đầu tư, dân sự, hình sự, đất đai, lao động, hôn nhân và gia đình... Công ty Luật Thái An cam kết cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng.

  • Để được Giải đáp pháp luật nhanh - Hãy gọi Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900 633 725
  • Để được Tư vấn luật bằng văn bản – Hãy điền Form gửi yêu cầu (phí tư vấn từ 3.000.000 đ)
  • Để được Cung cấp Dịch vụ pháp lý trọn gói – Hãy điền Form gửi yêu cầu (Phí dịch vụ tuỳ thuộc tính chất vụ việc)






    1900633725
    Yêu cầu dịch vụ

    Gọi điện cho luật sư
    Gọi cho luật sư

    Tư vấn văn bản
    Tư vấn văn bản

    Dịch vụ trọn gói
    Dịch vụ trọn gói